Định nghĩa Reiki:
Từ ‘Reiki’ bao gồm hai từ tiếng Nhật ghép thành – Rei và Ki. Khi dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh, cần lưu ý rằng một lối chuyển ngữ chính xác cho từ này là khó. Ngôn ngữ Nhật Bản có nhiều tầng nghĩa khác nhau. Vì thế, bối cảnh từ đó được dùng phải được lưu ý khi nỗ lực truyền tải cốt lõi của từ.
Vì những từ này được dùng trong bối cảnh chữa lành mang tính tinh thần, nên từ điển Nhật/ Anh không cung cấp được chiều sâu về nghĩa mà chúng ta tìm kiếm, vì những định nghĩa này vốn dựa trên tiếng Nhật giao tiếp hàng ngày. Ví dụ, Rei thường được định nghĩa là ma, và Ki là sự bốc hơi; và do những từ này chỉ theo chiều hướng không sát lắm với ý nghĩa mà chúng ta tìm kiếm, nên chúng hầu như không phản ánh được nhiều cách hiểu cần đề tới ở đây.
Nghĩa của ‘REI’:
Khi tìm kiếm một định nghĩa từ bối cảnh mang tính tinh thần hơn, chúng tôi thấy rằng Rei có thể được định nghĩa là Trí tuệ Cao hơn, Trí tuệ này vốn chỉ dẫn sự sáng tạo và vận hành của vũ trụ. Reiki là trí tuệ tinh tế hiện diện trong mọi thứ, cả ở thực thể có sự sống lẫn ở thực thể không có sự sống. Trí tuệ tinh tế này chỉ dẫn phát triển của mọi sáng tạo trải rộng từ việc mở ra những giải ngân hà cho tới sự phát triển của cuộc sống. Ở mức độ con người, trí tuệ này luôn sẵn có đó giúp chúng ta đúng lúc chúng ta cần và vận hành như một nguồn chỉ dẫn trong cuộc sống của chúng ta. Do bản chất bao la không giới hạn của nó mà năng lượng này có tính được biết đến rộng khắp. Rei còn được gọi là Chúa và có nhiều tên gọi khác nữa tùy theo văn hóa nơi mà tên gọi đó được đặt ra.
Nghĩa của ‘KI’:
Ki là năng lượng không mang tính vật lý hiện diện trong mọi thực thể có sự sống. Ki trôi chảy trong mọi thứ có sự sống gồm cây cối, động vật và con người. Khi Ki ở ban thân cao, người đó sẽ cảm thấy mạnh mẽ, tự tin, sẵn sàng thưởng thức cuộc sống và tiếp nhận thử thách của cuộc sống. Khi Ki thấp, họ sẽ cảm thấy yếu đuối và dường như bị ốm vậy. Chúng ta tiếp nhận Ki từ không khí mà mình hít thở, từ thức ăn, từ ánh sáng mặt trời, và từ giấc ngủ. Cũng có thể gia tăng Ki ở bản thân bằng cách sử dụng những bài tập hít thở và thiền. Khi ai đó chết, Ki của người đấy rời khỏi thân thể vật lý.
Ki còn được gọi là Khí trong tiếng Trung Hoa, prana trong tiếng Ấn, Ti hay Ki trong tiếng Hawai, và còn được gọi là lực Odic, Orgone, Bioplasma và sinh lực.
Với thông tin trên, Reiki có thể được định nghĩa như một năng lượng chữa lành phi tính vật lý, tạo nên năng lượng sự sống do Trí tuệ Cao hơn chỉ dẫn, hay là năng lượng sống được chỉ dẫn một cách tâm linh.
Đây là một định nghĩa mang tính chức năng vì nó khá gần với trải nghiệm của những ai thực hành Reiki ở khía cạnh là, năng lượng Reiki dường như có một trí thông minh của chính nó trôi chảy tới những nơi cần tới ở khách hàng và tạo nên trạng thái chữa lành cần thiết cho nhu cầu của người đó. Nó không thể được chỉ dẫn bởi tâm trí, vì thế nó không bị giới hạn bởi trải nghiệm hay khả năng của trị liệu viên. Nó cũng không thể bị sử dụng sai vì nó luôn tạo ra hiệu quả chữa lành. (Cần lưu ý rằng Reiki không giống như năng lượng sống đơn giản vì năng lượng sống đơn giản tự nó có thể bị ảnh hưởng bởi tâm trí và vì vậy có thể tạo ra lợi ích song cũng gây nên những vấn đề bao gồm một sức khỏe yếu bệnh.
Nguồn gốc hay nguyên nhân của sức khỏe khỏe mạnh hay bệnh:
Dòng chảy Ki trôi chảy hay nghẽn tắc – dẫn tới sức khỏe lành mạnh hay yếu bệnh
Nguồn gốc hay nguyên nhân của sức khỏe tới từ Ki, vốn trôi chảy xuyên qua và quanh con người thay vì từ điều kiện vận hành của các cơ quan và mô vật lý. Chính Ki hiện diện ở các cơ quan và mô vật lý khi nó trôi chảy qua chúng và vì vậy Ki chịu trách nhiện tạo nên tình trạng khỏe mạnh. Nếu dòng chảy của Ki bị tắc nghẽn, các cơ quan và mô vật lý sẽ bị ảnh hưởng theo hướng ngược lại. Vì vậy, nghẽn tắc của dòng chảy
Ki là nguyên nhân chính của bệnh.
Một đặc tính của Ki: đáp lại tương ứng phẩm chất suy nghĩ và cảm xúc của con người
Một đặc tính quan trọng của Ki là nó đáp lại suy nghĩ và cảm xúc của con người. Ki sẽ trôi chảy mạnh mẽ hơn hay suy yếu hơn tùy theo phẩm chất suy nghĩ và cảm xúc của người đó. Suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực của chúng ta là nguyên nhân chính của những giới hạn trong trôi chảy của Ki. Mọi suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực hay xung đột sẽ gây nên tắc nghẽn trong dòng chảy của Ki. Ngay cả y học phương Tây cũng nhận thấy rằng vai trò ảnh hưởng của tâm trí trong việc tạo nên bệnh và một số bác sĩ phương Tây chỉ ra rằng khoảng 98% bệnh là do tâm trí gây nên một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Cũng cần hiểu rằng tâm trí không chỉ tồn tại ở não, mà còn ở khắp thân thể. Hệ thống thần kinh mở rộng tới mỗi cơ quan và mô trong cơ thể và tâm trí cũng tồn tại ở đây nữa. Người ta cũng biết rằng tâm trí thậm chí còn tồn tại bên ngoài thân thể ở trường năng lượng tinh tế dày khoảng 60cm – 90cm (02-03 feet), được gọi là hào quang. Chính vì vậy, sẽ đúng hơn khi gọi tâm trí của chúng ta là tâm trí/thân thể vì tâm trí và thân thể có liên kết rất mật thiết.
Vì thế, những suy nghĩ tiêu cực không chỉ ở trong não, mà còn tụ lại ở nhiều vùng trên khắp thân thể và trong hào quang. Những nơi mà suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực tụ lại là nơi Ki bị nghẽn lại trong dòng trôi chảy thông thường của nó. Những bộ phận vật lý tồn tại ở những nơi đó, chức năng vận hành bị hạn chế. Nếu suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực không được giải tỏa nhanh chóng, sẽ dẫn tới bệnh.
Suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực lưu cữu trong tâm trí/ thân thể vô thức là vấn đề lớn nhất mà chúng ta lại không hay biết được về suy nghĩ/ cảm xúc đó, và do đó, chúng ta gặp cản trở rất lớn trong việc làm thay đổi hay giải tỏa đi những khối suy nghĩ, cảm xúc này.
Reiki có thể làm việc trực tiếp với phần vô thức của tâm trí/ thân thể – nơi ẩn giữ suy nghĩ/ cảm xúc tiêu cực
Giá trị lớn của Reiki là do Reiki được chỉ dẫn bởi Trí tuệ Cao hơn, nó biết chính xác đi tới đâu và đáp lại những nghẽn tắc trong dòng chảy Ki như thế nào. Reiki có thể làm việc trực tiếp trong những phần vô thức của tâm trí/ thân thể, nơi hàm chứa những Ki tiêu cực – Ki đang chịu ảnh hưởng của suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực và giải tỏa chúng đi. Khi Reiki đi xuyên qua vùng ốm hay bệnh, nó phá vỡ và rửa trôi đi bất kỳ suy nghĩ hay cảm xúc tiêu cực ẩn chứa trong tâm trí/ thân thể vô thức đó, vì vậy cho phép dòng Ki lành mạnh bình thường được tiếp tục trôi chảy. Khi điều này diễn ra, bộ phận vật lý và mô không lành mạnh trở nên được nuôi dưỡng đúng đắn bởi Ki và bắt đầu vận hành theo cách thức lành mạnh cân bằng, và rồi thay thế bệnh thành khỏe mạnh.
Kỹ thuật chữa lành không xâm lấn, hoàn toàn dung hòa nhẹ nhàng này đang ngày càng phổ biến. Khi y học phương Tây tiếp tục tìm hiểu về những phương pháp chữa lành thay thế, thì Reiki được định cho giữ vai trò quan trọng như một nghề nghiệp chữa lành có giá trị và được chấp nhận.
Tác giả: William Lee Rand
Để lại đánh giá