Từ xa xưa, ý thức về dòng năng lượng vô hình trôi chảy ở mọi thực thể sống và tác động trực tiếp tới sức khoẻ con người đã là một phần trí tuệ của nhiều nền văn hoá. Năng lượng sống này có nhiều tên gọi khác nhau: ở Trung Hoa là ‘khí’, Nhật Bản là ‘ki’, Ấn Độ là ‘prana’. Người Hawaii cổ gọi đây là ‘ti’ hay ‘ki’. Nó cũng được gọi là năng lượng ‘orgone’ và ‘élan vital’; Khoa học thì xem đây là năng lượng trường sinh học.
Nếu năng lượng sống ở một người thấp, họ sẽ thấy khó khăn hơn khi gặp căng thẳng; có thể mất ngủ, dễ mắc bệnh. Nếu năng lượng sống ở người đó cao, họ sẽ cảm thấy mạnh mẽ, dễ dàng ứng phó căng thẳng, ít nhiễm bệnh hơn. Reiki chính là kỹ thuật giúp tăng cường nguồn cung cấp năng lượng sống này.
Reiki là phương pháp trị liệu xuất phát từ Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20. Reiki hiện đã và đang phát triển mạnh mẽ tại các quốc gia tiên tiến như Anh, Mỹ, Canada, Úc và nhiều nước Châu u khác. Hiện có hơn 900 bệnh viện tại Bắc Mỹ ứng dụng Reiki.
Năng lượng Reiki là năng lượng vi tế. Nó khác với các loại năng lượng vật chất. Năng lượng Reiki đến từ Nguồn Năng Lượng Cao Hơn (Higher Power), tồn tại ở chiều kích cao hơn chiều kích vật lý quen thuộc của chúng ta. Các nhà ngoại cảm quan sát thấy rằng năng lượng Reiki xuất hiện ở phía trên và đi xuống đỉnh đầu của người thực hành Reiki, chảy qua cở thể và đi ra hai bàn tay. Nó trông như vậy từ góc nhìn của chúng ta. Tuy nhiên, nguồn gốc thật sự của năng lượng Reiki là ở trong chính chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta sử dụng năng lượng của cá nhân mình khi chúng ta thực hành Reiki, mà có nghĩa là nguồn năng lượng đến từ phần bản thể siêu việt của chúng ta, nó được kết nối với một nguồn năng lượng chữa lành vô tận.
Chữa lành với Reiki thường mang đến trạng thái thư giãn sâu, giảm các căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, các cảm xúc tiêu cực và nhiều điều khác nữa.
Bất kỳ ai cũng có thể học Reiki. Học viên Reiki không đòi hỏi phải có các hiểu biết nền tảng đặc biệt. Học viên tại Trung tâm có độ tuổi từ 08 đến 86 tuổi.
Reiki đã được nhiều người thực hành trong hơn 90 năm qua và nó ngày càng trở nên phổ biến. Một nghiên cứu được thực hiện bởi National Health Interview Survey (Mỹ) vào năm 2007 cho thấy rằng có 1.2 triệu người lớn là 161,000 trẻ em đã từng tiếp nhận việc trị liệu bằng năng lượng như Reiki ít nhất một lần trong năm đó. Theo Hiệp Hội Bệnh Viện Nước Mỹ, vào năm 2007, có 15% hay hơn 800 bệnh viện ở Mỹ đưa Reiki vào như một phần của dịch vụ bệnh viện. Reiki cũng đang bắt đầu xuất hiện tại các bệnh viện tại Canada, Nam Mỹ, Anh và Úc.
Các nghiên cứu khoa học về Reiki tại Mỹ được tập hợp tại website centerforreikiresearch.org
Reiki là một kỹ thuật được truyền từ thầy sang trò. Mỗi một học viên Reiki là một người kế thừa của thầy họ và có thể truy ngược tới người sáng lập của hệ thống Reiki mà người đó đang thực hành. Trong hệ thống Usui Reiki, dòng truyền thừa bắt đầu từ Thầy Mikao Usui (1865-1926).
Năng lượng Reiki cho phép các cơ thả lỏng và lưu dẫn máu tới vùng cần trị liệu nhanh, thúc đẩy quá trình chữa lành. Trị liệu viên và khách hàng đều phản ánh lại về tác dụng của Reiki như làm giảm: căng thẳng, đau đầu, mất ngủ, dạ dày trào ngược, bong gân.… Đôi khi, Reiki đưa tới kết quả kỳ diệu. Reiki cũng thúc đẩy chữa lành về tâm lý, gồm điều hoà giận dữ, sợ hãi, lo âu, buồn phiền và cảm xúc thiếu lành mạnh khác, thay thế cảm xcc đó bằng cảm giác trân trọng bản thân, tự tin và thanh thản.
Reiki được vận hành qua đôi tay của trị liệu viên Reiki, khách hàng được thường được mời trị liệu ở tư thế nằm tại bàn trị liệu, không có yêu cầu cởi bỏ bớt quần áo..
Thời gian mỗi phiên trị liệu thường là 45 phút – 01 tiếng. Phiên trị liệu với thời gian nửa giờ và ngắn hơn vẫn có thể được thực hiện.
Trị liệu viên Reiki đặt tay ở vị trí quanh cổ, vai, bụng, chân và bàn chân. Trị liệu viên đơn giản đặt tay ở mỗi vị trí, chạm nhẹ hay hơi cách thân thể của khách hàng một chút. Năng lượng Reiki trai chảy từ tay của trị liệu viên và đi tới thân thể và trường năng lượng của khách hàng. Một phiên trị liệu Reiki thường đưa tới cho khách hàng cảm nhận như có ánh sáng lan toả ấm áp bao bọc và tràn ngập, bao gồm cảm giác thư giãn, an bình và lành mạnh, thúc đẩy cho việc chữa lành diễn ra.
Our website uses cookies to improve your experience. Learn more about: cookie policy